Theo một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Sciene, phân tích di truyền không thể dự đoán trước được liệu một người có hành vi tình dục đồng giới hay không.
Nghiên cứu này được tiến hành trên 500 nghìn người và chỉ ra rằng có một số gene đồng tính tác động đến hành vi tình dục, tuy nhiên chúng đóng vai trò rất nhỏ. Yếu tố xã hội và môi trường mới là nguyên nhân chính.
Trong buổi họp báo, chủ nhiệm đề tài nghiên cứu, cũng là nhà di truyền học tại Viện Broad và là phó giáo sư tại Đơn vị Phân tích và Dịch thuật Di truyền học Bệnh viện Đa khoa Massachusetts (Mỹ), ông Ben Neale cho biết “Đến nay, đây là cuộc nghiên cứu lớn nhất và kỹ lưỡng nhất về di truyền có ảnh hưởng như thế nào đến hành vi tình dục đồng giới”. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng di truyền chỉ đóng vai trò rất nhỏ, đồng thời cũng cho thấy sự phức tạp của các yếu tố sinh học liên quan đến hành vi tình dục đồng giới.
Phó giáo sư Darren Whitfield tại trường Công tác Xã hội thuộc Đại học Pittsburgh nghiên cứu về sức khỏe cộng đồng LGBTQ cho biết “nghiên cứu này bác bỏ giả thuyết rằng có một ‘gene đồng tính”.
Các nhà nghiên cứu đã làm việc với các nhóm thuộc cộng đồng LGBT để thảo luận về cách công bố công trình nghiên cứu này; và những trao đổi này đã ảnh hưởng đến cách các nhà nghiên cứu viết bài báo. Whitfield nhận xét công trình này đã tránh được những vấn đề tồn tại trong những nghiên cứu trước đây về hành vi tình dục đồng giới và di truyền học; và thực tế cho thấy, việc tham khảo ý kiến này không phải không có ý nghĩa. “Ngày nay, dường như các nhà khoa học đã chú ý hơn đến thông điệp mà các công trình nghiên cứu của họ có thể truyền tải”, ông Whitfield nói. “Trong quá khứ, các nhà nghiên cứu di truyền học trên lĩnh vực này chưa từng xem xét đến hậu quả mà nó có thể gây ra”.
Tuy nhiên, Whitfield cũng cho rằng không hoàn toàn loại trừ khả năng kết quả của các nghiên cứu này được sử dụng để công kích cộng đồng LGBTQ. “Những kết quả nghiên cứu có thể củng cố quan điểm kỳ thị đồng tính”, “nó còn thúc đẩy quan điểm cho rằng tình dục đồng giới là một sự bất thường”, ông Whitfield cho biết thêm.
Cuộc nghiên cứu đã phân tích gene trên gần 500 nghìn người đã hiến mẫu DNA qua các nguồn khác nhau, bao gồm ngân hàng sinh học UK Biobank (nơi tiếp nhận các mẫu gene từ tình nguyện viên tại UK) và các mẫu gene khách hàng của công ty di truyền 23andMe (đã được khách hàng đồng ý cho sử dụng để phục vụ nghiên cứu, bao gồm cả nghiên cứu này). Nguồn dữ liệu chỉ gói gọn trong nhóm người có nguồn gốc châu Âu. Sau đó, nhóm nghiên cứu tiếp tục phân tích quan hệ giữa các gene cụ thể với các thông tin về hành vi tình dục đồng giới.
Mục đích của cuộc nghiên cứu này là để kiểm tra liệu có thể xác định chủ thể đã từng có quan hệ tình dục đồng giới hay chưa. Những hành vi được nghiên cứu không đồng nhất với xu hướng tình dục hay nhận dạng giới tính: một người có hành vi tình dục đồng giới có thể là lưỡng tính (bisexual), đồng tính (gay) hoặc toàn tính (pansexual) và một số nhận dạng giới tính khác không được phản ánh trong nghiên cứu này. Phạm vi nghiên cứu không bao gồm người chuyển giới, liên giới tính, hay nói cách khác là không xác định được giới tính khi họ được sinh ra.
Qua phân tích, nghiên cứu chỉ ra rằng có khoảng 8% đến 25% người có hành vi tình dục đồng giới trong số mẫu nghiên cứu có thể giải thích bởi di truyền học. Yếu tố môi trường và xã hội chi phối số còn lại. “Tôi nghĩ rằng nghiên cứu đã giúp chúng ta nhấn mạnh rằng có cả yếu tố sinh học và yếu tố môi trường tác động. Ngoài ra nó còn khẳng định tình dục đồng giới là một hiện tượng tự nhiên của loài”.
Các gene liên quan đến hành vi tình dục đồng giới trùng với những trường hợp bị mắc các bệnh về tâm thần như tâm thần phân liệt hay trầm cảm, những trường hợp này được nhóm nghiên cứu cho rằng do có sự phân biệt đối xử giữa những người quan hệ tình dục đồng giới. “Với các mẫu thử từ U.K Biobank, những người tham gia có độ tuổi phù hợp với thời điểm mà hành vi tình dục đồng giới bị xem là tội phạm”, “và các nghiên cứu khác cũng đã chỉ ra việc bài trừ, ngăn cấm hay thậm chí là tội phạm hóa các hành vi có thể tác động đến sức khỏe tâm thần”, ông Neale cho biết.
Theo ông Neale, kết quả nghiên cứu cũng đặt ngược lại câu hỏi về thang đo Kisney, đây là thang đo phổ biến chỉ xu hướng tính dục của một ai đó từ 0 điểm (hoàn toàn đồng tính) đến 6 điểm (hoàn toàn dị tính). Nghiên cứu phản ánh sự thật rằng sự đa dạng ở các cá nhân về hành vi tình dục nhiều hơn so với thang đo Kinsey, “thang đo này đã đơn giản hóa các loại hành vi tình dục của con người”.
Ngoài việc cung cấp dữ liệu cho dự án trên, công ty 23andMe còn tổ chức một nhóm nghiên cứu độc lập. Công ty này đã tiến hành các nghiên cứu về mối quan hệ giữa gene và hành vi tình dục đồng giới từ năm 2012. “Là một công ty về di truyền, chúng tôi cam kết đại diện cho sự đa dạng của quần thể người và hành vi tình dục chỉ là một thành phần của điều đó”, Fah Sathirapongsasuti phát biểu trong họp báo, ông là một nhà khoa học cấp cao của 23andMe. “Chúng tôi hy vọng nghiên cứu này sẽ đánh dấu một khởi đầu mới trong các dự án nghiên cứu liên quan đến một khía cạnh quan trọng trong nghiên cứu hành vi con người”. Ông còn cho biết thêm nhiều khách hàng của công ty đã liên hệ và đề nghị họ thực hiện dự án nghiên cứu này.
“Tôi nghĩ rằng chúng tôi đã học được nhiều điều rất quan trọng và trong đó có thể nói rằng còn nhiều vũ trụ khác tồn tại bên ngoài thế giới của chúng ta”, ông Neale nói.
Khi dự án này mới triển khai, Viện Broad đã đăng tải một loạt bài viết của nhiều nhà khoa học về vấn đề xã hội và đạo đức liên quan đến loại công trình nghiên cứu này. Vì chúng được cho là có khả năng tác động xấu đến cộng đồng LGBT và có thể được dùng để phân biệt đối xử. “Tôi không đồng tình với lời biện minh của tác giả đề tài nghiên cứu này, cuối cùng thì chính họ đang gây nguy hiểm cho sự an toàn của cộng đồng LGBTQIA+”, Meagan Olive, một nghiên cứu viên tại Viện Broad viết.
Việc suy nghĩ về hệ quả của những nghiên cứu như thế này cực kỳ quan trọng, ông Whitfield nói. “Chúng tôi hiện vẫn đang tìm kiếm tổ hợp gene tác động đến hành vi tình dục. Nhưng câu hỏi đặt ra trong tôi là vì sao và mục đích là gì?”
[blog type=”alt” heading=”Xem thêm bài mới nhất” heading_type=”block” /]
Theo VnReview/Popular Science