Theo Viện VLI, chỉ có hơn 5% doanh nghiệp xem trọng vai trò của việc bảo mật thông tin trong quá trình chuyển đổi số doanh nghiệp.
Theo đó, theo một khảo sát mới của Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam (VLI), các công ty Việt Nam không chú trọng đến tính bảo mật và hiệu suất bảo mật thông tin của các nền tảng trực tuyến. Chỉ 5,26% công ty tin rằng việc bỏ qua công tác bảo mật đang cản trở quá trình chuyển đổi kỹ thuật số của họ.
Kết quả khảo sát của Viện VLI cho thấy 38,24% công ty logistics tin rằng COVID-19 đã tạo ra nhu cầu chuyển đổi kỹ thuật số, trong khi 42,65% công ty cho rằng tác động của COVID-19 là quan trọng nhất. là thay đổi nhu cầu của khách hàng (ví dụ: nhiều giao dịch điện tử hơn, dịch vụ giao hàng thương mại điện tử, v.v.). Ngoài ra, các xu hướng khác đang nổi lên, ví dụ: B. Đánh tráo khái niệm về sự vật. Hoạt động kinh doanh Logistics, khả năng làm việc từ xa.
Các công ty tham gia khảo sát đều bày tỏ sự quan tâm và đánh giá cao vai trò quan trọng của chuyển đổi số, tuy nhiên, quá trình này tạo ra nhiều khó khăn, vướng mắc.
Đây là sự tương thích về công nghệ giữa công ty của họ và đối tác trong chuỗi dịch vụ logistics (44,74% công ty), nguồn vốn hạn chế và nguồn nhân lực hạn chế (42,11% công ty), chưa tìm được công nghệ chuyển đổi phù hợp (39,47% công ty) và 28,95 % công ty tự hỏi làm thế nào để đầu tư thích hợp và làm thế nào để bắt đầu quá trình này. chuyển đổi số.

Ngoài ra, việc chuyển đổi một lượng lớn thông tin hiện có thành nền tảng kỹ thuật số cũng là một trở ngại đối với 15,97% công ty.
Trong khi đó, các công ty logistics không chú trọng đến vấn đề bảo mật và an toàn thông tin của các nền tảng trực tuyến, mặc dù chỉ có 5,26% công ty cho rằng đây là một trở ngại cho quá trình chuyển đổi. các công ty ”, nhấn mạnh nghiên cứu của Viện VLI.
Kết quả khảo sát trên cho thấy, thúc đẩy chuyển đổi kỹ thuật số mạnh mẽ đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của các công ty logistics với các đối tác trong toàn mạng lưới chuỗi dịch vụ để đưa ra quyết định đúng đắn.
Chuyển đổi số phụ thuộc nhiều vào tư duy của các nhà điều hành và cần được xem như một chiến lược của các công ty, bao gồm cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thực tế, các công ty logistics có đặc thù làm việc với lượng dữ liệu lớn (Big Data), số lượng đơn hàng có thể từ vài trăm nghìn đến cả triệu đơn hàng mỗi ngày, nhu cầu chuyển đổi số trở thành vấn đề cấp thiết và tiên quyết. cho bài tập của Task.
Đáng chú ý là mặc dù còn nhiều khó khăn ảnh hưởng đến việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số của các doanh nghiệp logistics Việt Nam, nhưng các công ty đã nỗ lực đầu tư vào công nghệ thông tin và ứng dụng các thông tin cần thiết cho việc cung cấp các dịch vụ logistics quan trọng.
Đặc biệt, 75% công ty sử dụng FMS (Forwarding Management Software); 63,89% công ty sử dụng phần mềm OMS và WMS (phần mềm quản lý đơn hàng, phần mềm quản lý kho); 61,11% công ty sử dụng TMS (Phần mềm quản lý vận tải).
Có rất ít ứng dụng có thể tối ưu hóa hoạt động, chẳng hạn như VRP (Hệ thống định tuyến xe) hay hệ thống lưu trữ và chọn hàng tự động AS / RS, hệ thống vận tải không người lái được các công ty sử dụng với 19,4%, 16,67% và 11,11% được sử dụng .
Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ máy bay không người lái (drone) hoàn toàn chưa được sử dụng nhưng có tới 11,11% công ty logistics Việt Nam có kế hoạch sử dụng trong tương lai.